Có lẽ mỗi người Việt Nam đều biết tới hai Bà Trưng – 2 nữ anh hùng kiệt xuất của dân tộc. tinh thần quật khởi của 2 Bà Trưng đã góp phần nung đúc, un đúc nên ý chí quật cường, sức sống bền bỉ của một dân tộc anh hùng. Bài viết dưới đây chúng ta cộng đánh giá cuộc khởi nghĩa hai bà trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào?
2 Bà Trưng là tên thường được người Việt Nam tiêu dùng khi nhắc về 2 vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị. 2 Bà Trưng là 2 chị em sinh đôi, là con gái của Quan Lạc tướng Mê Linh, thuộc cái dõi Hùng Vương. thân mẫu là bà Man Thiện, quê quán Nam Nguyên – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội.
Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào?
Tháng hai năm 40 sau Công nguyên (tức năm Canh Tý), Trưng Trắc và Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát (thuộc địa phận thị xã Phúc Thọ – Hà Nội). Hưởng ứng lời kêu gọi của hai Bà Trưng, những ý trung nhân nước khắp nơi đã tề tựu về Mê Linh.
Tiểu sử hai bà trưng ngắn gọn
Hai Bà Trưng là tên thường được người Việt Nam tiêu dùng khi đề cập về 2 vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị. hai Bà Trưng là 2 chị em sinh đôi, là con gái của Quan Lạc tướng Mê Linh, thuộc mẫu dõi Hùng Vương. mẫu thân là bà Man Thiện, quê quán Nam Nguyên – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội.
Ko may, chồng mất sớm, bà Man Thiện 1 mình nuôi 2 chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Bà dạy những con bí quyết trồng dâu, nuôi tằm. ko chỉ vậy, bà còn nuôi dưỡng trong hai con lòng yêu nước, chú trọng đoàn luyện sức khỏe và võ thuật.
Nhờ ấy, Trưng Trắc trở nên người đàn bà quả cảm, mưu trí, mưu trí. Chồng bà là Thi Sách, con 1 lạc tướng huyện Chu Diên. Cuộc hôn nhân này đã khiến thế lực của gia đình Trưng Trắc ngày càng vững mạnh. Lo sợ ảnh hưởng của dòng tộc Trưng Trắc, Tô Định – quan đại thần nhà Đông Hán đã tậu cách giết Thi Sách.
Trước chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán mang toàn thể quần chúng Âu Lạc và thói bạo ngược của Tô Định, Trưng Trắc phấn đấu khởi nghĩa lật đổ chính quyền đô hộ, áp bức. Đông Hán, khôi phục nền độc lập. Trước mặt ba quân, nàng hùng hồn khẳng định:
- Một xin rửa sạch nước thù
- Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
- Ba kêu oan ức lòng chồng
- Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này
Diễn biến chính cuộc khởi nghĩa hai bà trưng
Cuộc khởi nghĩa 2 Bà Trưng chia làm cho hai lần.
Năm 40, sau Công nguyên
Nghĩa quân hai Bà Trưng từ Mê Linh tiến xuống đánh thành Luy Lâu (nay là Thuận Thành – Bắc Ninh) – kinh thành của chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ. Do hết sức căm giận chế độ áp bức, bất nhẫn của nhà Đông Hán lúc lật đổ chính quyền Đông Hán ở Luy Lâu, quần chúng. # các quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), thị xã Nhật Nam ( trong khoảng Hoành Sơn đến Quảng Nam) tham dự tranh đấu.
Được nhân dân khắp nơi ủng hộ, nghĩa binh 2 Bà Trưng đi đến đâu, đổ vỡ chính quyền và nghĩa binh nhà Đông Hán. Trước sức mạnh của nghĩa binh, Tô Định, Thứ sử, Thái thú nhà Đông Hán hoảng sợ cùng nhau bỏ chạy sang Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa ở địa phương được thống nhất thành phong trào khởi nghĩa rộng lớn của dân chúng quần chúng. # khắp nơi. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai Bà Trưng đã giải phóng 65 huyện, thị xã, tỉnh thành. Cuộc khởi nghĩa thành công và giành được độc lập trên quy mô cả nước. Sau ấy, Trưng Trắc được tôn khiến cho vua, thường gọi là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Năm 42, sau Công nguyên
Năm 42, nhà Hán tăng cường tiếp viện, Mã Viện là thủ lĩnh của đội quân xâm lược này, gồm: 20.000 quân tinh nhuệ, hai.000 chiến thuyền và đa số người. Chúng tiến công quân ta ở Hepu, người dân ở Hepu đã dũng mãnh chống trả nhưng vẫn gặp thất bại trước quân Hán.
Sau khi chiếm được Hợp phố, Mã Viện chia quân làm cho hai con đường thủy bộ tiến về Lục Đầu, gặp nhau ở Lãng Bạc:
- Đạo quân: đi theo tuyến phố biển, lẻn qua Ma Môn để xuống Lục Đầu.
- Thủy quân: từ Hải Môn vượt biển thẳng vào sông Bạch Đằng, rồi từ thái bình vào Lục Đầu.
Nhận được tạp chí, 2 Bà Trưng kéo quân trong khoảng Mê Linh ra đánh giặc ở Lãng Bạc. Quân ta giữ Cổ Loa, Mê Linh nhưng Mã Viện vẫn tiếp tục truy kích, buộc quân ta phải rút về Cấm Khê (nay thuộc Ba Vì – Hà Nội).
Tháng 3 năm 43, 2 Bà Trưng mất ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến vẫn kéo dài cho tới tháng 11 năm 43 trước khi nó bị dập tắt.
Kết quả và ý nghĩa lịch sử hai bà trưng
Qua việc Nhận định 2 Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm nào, chúng ta mang thể thấy cuộc khởi nghĩa trước tiên trong 40 năm đã hoàn toàn thành công. Bên cạnh đó, lúc nhà Hán chi viện vào năm 42 sau Công nguyên, cuộc khởi nghĩa thất bại vào năm 43 sau Công nguyên. chiến thắng mà nghĩa quân hai Bà Trưng giành được là nhờ sự ủng hộ nhiệt thành của quần chúng. # và sự lãnh đạo tài hoa. nghĩa tình và sự đấu tranh quả cảm của nghĩa binh.
Tuy thất bại vào năm 43 sau Công nguyên, nhưng cuộc khởi nghĩa 2 Bà Trưng với ý nghĩa lớn lớn:
- Thắng lợi năm 40 của cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng đã khôi phục lại nền độc lập dân tộc của dân tộc, mở ra một trang mới trong lịch sử.
- Trong và sau cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng đã diễn tả tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân chúng trong việc giành lại độc lập, chủ quyền của đất nước.
- Đặc trưng, cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng đã khẳng định vai trò bất khuất, kiên cường của người nữ giới Việt Nam.
Như vậy, bạn đọc đã nắm được 2 Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào năm nào. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng dù đã hàng ngàn năm trôi qua nhưng cuộc khởi nghĩa này vẫn để lại rộng rãi bài học kinh nghiệm quý báu cho dân tộc Việt Nam.
Xem thêm:
Điểm cực bắc của nước ta thuộc tỉnh nào
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
Tìm kiếm có liên quan về hai bà trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào?
- Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống lại ách
- Hai Bà Trưng khởi nghĩa the kỉ nào
- Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở đâu
- Hai bà trưng đánh giặc nào
- Năm 248 bà triệu phất có khởi nghĩa ở
- Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa vào thời gian nào
- Năm 40 thuộc the kỉ nào
- Năm 248, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa ở đâu